Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Bài số 15 Một Cõi Thiền Nhàn





Chào quý bạn,

Đây là bài thứ mười lăm của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo.

Thứ tư vừa qua 1-30-2010, Portland phủ đầy tuyết trắng.  Người viết không thể nào đến nhà cô cháu nội dễ thương Mya của tôi như thường lệ.  Buồn quá!
  Tôi phải ngồi  bên song cửa nhìn những cụm tuyết  trắng bay bay như những nhúm bông gòn được những bàn tay tiên nữ trên trời đùa nghịch thả xuống, chẳng bao lâu sân trước vườn sau  nhà tôi phủ đầy tuyết trắng.  Tiếng nhạc êm dịu trong nhà và cảnh đẹp tuyết trắng ngoài sân làm sống dậy hồn thơ trong tôi:

Bên song cửa nhìn tuyết rơi nhè nhẹ
Từ trên trời bông tuyết trắng bay bay
Chẳng bao lâu bông tuyết trắng phủ đầy
Trên vườn cỏ, trên khóm hoa, khu phố

Nghe đâu đấy lời kinh buồn phổ độ
Cho kiếp người nay hợp lại mai tan
Như tuyết kia, như hoa nọ sẽ tàn
Khi nắng đến, khi mưa về! Tan tác!

(Bên song nhìn tuyết đổ - SL)-

Màu trắng của tuyết đã gợi cảm hứng cho những vần thơ khúc nhạc của thi sĩ, nhạc sĩ như bài thơ Hoa Xuyên Tuyết của Tế Hanh dưới đây:

Nở trước trăm hoa hoa xuyên tuyết
Đem tin xuân đến khắp trăm nhà
Tìm màu trắng tuyết nhưng không thấy
Chỉ thấy quanh mình màu trắng hoa

 Tế Hanh

Bạn sẽ cảm thông với  những chàng phi công nhìn tuyết trắng bay bay mà nhớ đến người yêu đang chờ đợi ở nhà qua nhạc phẩmTuyết Trắng của Trần thiện Thanh.  Theo nhận xét riêng của tôi, thì  không có ca sĩ nào hát bài này hay như ca sĩ Sĩ Phú đang “ngả nghiêng cánh chim, con tàu sẽ rời, rời xa thành phố rồi”.  Có phải vì  Sĩ Phú cũng là dân phi công nhìn tuyết trắng đúng  như tâm sự của mình nên mới hát  bài này hay như thế.

Mời bạn nghe tâm sự của chàng phi công  này nhé:

“Khi nắng chiều đi không gian chợt tối
xóa nhòa vùng tuyết trắng mông mênh
Anh ước sao tình mình như tuyết trinh
cho dù chúng mình không gian cách chia
cho dù tuyết trắng đã chìm trong màn đêm.”


Portland cũng nổi tiếng với ngọn núi Mount Hood tuyết trắng quanh năm, nhìn xa xa giống như ngọn núi nổi tiếng Phú Sĩ  của Nhật Bản.  Mỗi lần vợ chồng chúng tôi lê gót giang hồ trở về chốn cũ,  qua khung cửa máy bay,  nhìn thấy ngọn núi Mount Hood  thấp thoáng qua làn mây phía dưới, lòng tôi xúc động vô cùng.  Dù muốn dù không,  Portland cũng là nơi tôi sống gần ba chục năm qua, làm sao  tôi lại không có một chút nghĩa chút tình với  người dân và nơi chốn đã cưu mang gia đình tôi trong  những ngày tôi mới đến tìm tự do nơi đất lạ.

 Hơn thế nữa, ở nơi “đất lạnh tình nồng” này tôi lại có những người thân yêu gia đình tôi đang sống.   Họ đã và đang chia sẻ với tôi những vui buồn của cuộc sống tha hương đất khách.
  Tôi yêu Portland với những gì  hiện có ở nơi đây:  mùa Xuân với hoa đào hồng thắm, mùa Hạ với nắng ấm biển xanh, mùa thu với lá vàng trước ngõ và mùa Đông với tuyết trắng sau nhà.  Mùa nào cũng đẹp và đáng yêu đối với tôi, Bạn ạ!

Bên ngoài tuyết vẫn đổ, tôi cảm thấy lạnh nên đi pha một bình trà nhỏ để uống cho ấm lòng.
 Tôi vẫn nghĩ thú uống trà là một thú vui tao nhã của những bậc thi nhân ẩn sĩ.  Nhiều tài liệu đã nói về cái thú tao nhã này. Xin hãy đọc những dòng chữ giới thiệu về  thú uống trà của  Nguyễn  Duy Chính qua Lời Mở Đầu trong bài viết  “Trà Tàu và Âm Nghi Hưng” của ông dưới đây:

“Uống trà tàu vốn dĩ phổ thông thời trước, đến nay đã trở thành hiếm hoi trong xã hội Việt nam.  Thanh niên ngày nay chỉ mường tượng được cái hình ảnh đó qua truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm).
 Sách vở viết về trà lại càng ít ỏi.  Tại Việt năm thời trước, ngoài cuốn Vang bóng một thời chỉ lác đác một vài ba cuốn khác.  Trà đạo  kiểu Nhật thì có bản dịch cuốn Trà Thư (The Book of Tea) của Okakaura Kakuzo của Bảo Sơn
 Một tiểu thuyết cũng viết nhiều về thú uống trà là cuốn Trà Thất của Minh Đức Hoài Trinh.
 Ở hải ngoại, cuốn Trà Kinh của Vũ Thế Ngọc  là một biên khảo tương đối công phu.  Ngoài ra, thỉnh thỏang có một đoản thiên nghiên cứu về trà Tầu hay ấm trà đang rải rác trong tạp chí.  Mới đây tôi được đọc bài của Phan Quốc Sơn về ấm Nghi Hưng rất thú vị.
 Trong tác phẩm Sống Đẹp, Lâm Ngữ Đường cho rằng uống trà là một phát minh quan trọng nhất trong đời sống.  Trà là một phần và cũng là một biểu tượng của sự nhàn nhã,  Ông để hẵn một mục để bàn về Trà và Tình Bạn.
Viết về cách uống trà, thưởng thức trà thì Tây Phương có hằng trăm cuốn nhưng phần lớn viết theo cách nghiên cứu một loại thực phẩm.  Người Trung Hoa cũng có nhiều sách viết về trà, nghệ thuật uống trà, còn người Nhật thì đưa hẳn lên thành một đạo sống(Trà Đạo). 
Riêng Việt nam mặc dầu uống trà rất thịnh hành nhưng lại ít ai để tâm nghiên cứu.  Vũ Thế Ngọc, tác giả cuốn Trà Kinh đã ngậm ngùi mà than rằng: “viết về trà thì gần như chưa có ai viết” hoặc “viết vô cùng sơ lược”.  Nhận xét đó có lẻ không sai.  Và vì thế ông tự cho rằng cuốn sách ông soạn “là quyển sách đầu tiên  về nghệ thuật uống trà bằng Việt ngữ tương đối đầy đủ hơn cả” thì cũng không ngoa”.

( nguồn: Trà Tầu Và ấm Nghi Hưng của Nguyễn Duy Chính)

Tác giả Nguyễn Duy Chính là bạn học đồng môn QGHC với người viết.  Ông là một nhà nghiên cứu, dịch giả và tác giả của nhiều bài viết rất có giá trị  như  Nhân sâm, Linh Chi,  Cà phê, Bảo kiếm, Thư họa, v..v…. Tính tình giản dị, hiền hòa, học rộng hiếu nhiều, ông là một “sư đệ” mà tôi rất quý phục. Xin có lời thăm hỏi và cám ơn tác giả Nguyễn Duy Chính về những bài viết rất có giá trị của NDC mà tôi đã đọc.

 Tôi còn nhớ năm 2003 tôi có đến thăm “hàn nho phong vị phú gia trang” của NDC và tôi đã tâm tình như sau trong Bản Tin của Hội CSV/QGHC về gia đình của người sư đệ  quý mến này:

“Nhìn tủ kiếng đựng những ấm trà sưu tập và nhìn NDC pha trà đãi khách, tôi thấy cả một “khung trời nghệ thuật uống trà” trong gian nhà nhỏ này.  Bà xã KT còn tặng cho tôi một bọc hoa thiên lý mà bây giờ “khi nấu canh rau, chồng vợ húp”, tôi đã “phải nhớ đời” bởi câu hát của người miền Trung mà đại huynh BV từ Miền Đông mới vừa gửi đến:

 “Thương chồng nấu cháo le le
 Nấu canh thiên lý, nấu chè hạt sen »

(nguồn : Một Chuyến du Cali 2003 của SL)

Tản mạn dông dài về thú uống trà, người viết lại nhớ đến tách trà Triệu Châu dưới đây:

Trà Triệu Châu


Tăng đến tham bái, Triệu Châu hỏi:
-          Ông đã từng đến đây chưa ?
-          Tăng đáp :
-          Dạ đến rối.
-          Vào trong uống trà đi.
Lại hỏi một Tăng khác:
-          Ông đã từng đến đây chưa?
-          Thưa con mới đến.
-          Vào trong uống trà đi.
Viện chủ thấy vậy thắc mắc:
Quái ! Đến rồi cũng uống trà đi, chưa đến rồi cũng uống trà đi.  Tại sao vậy cà?
Triệu Châu gọi:
-          Viện chủ.
-          Thưa vâng.
-          Vào trong uống trà đi.

Bình:  Trà Triệu Châu bình đẳng, đối với kẻ cũ người mới đều thể hiện tâm bình thường.
Viện chủ không bình thường mới thắc mắc nên cũng cần uống trà đi.
(Nguồn: Thiền là gì ? Gíác Nguyên)

Chúng ta là người tầm thường,  chắc chắn sẽ cùng một ý nghĩ như vị viện chủ nói trên vì chúng ta còn cái tâm phân biệt kẻ trước người sau, kẻ lớn người nhỏ.  Nhưng với Triệu Châu, một bậc thiền sư chân chính, Ngài đã dùng với cái tâm bình đẳng đối đãi mọi người như nhau, nên với ai Ngài cũng mời ai uống trà là thế đó!

Cũng nhân việc uống trà, người viết xin mời Bạn đọc tiếp một chuyện uống trà khác nữa nhé.

Chén trà Thiền lý

Có một học giả đến hỏi thiền nơi Thiền sư Nam Ẩn. 
Sư mang trà ra rót vào chén để đãi khách.  Trà tràn đầy ra ngoài mà sư vẫn cứ rót.
Học giả bèn thưa:
-          Sư phụ, trà đầy rồi xin ngừng tay lại.
Nam Ẩn đáp:
-          Ông có khác chi chén trà này, trong lòng đầy ấp những tri giải, định kiến. Nếu ông không cạn chén trà tri giải nơi mình trước.  Ta biết làm sao nói Thiền cho ông nghe.

Bình:  Hãy cạn chén trà tri giải của bạn đi.  Nếu không, bạn chỉ trông mặt mà bắt hình dong, nhận giặc làm cha, dầu có gặp Phật ra đời khai thị, bạn cũng không tỏ ngộ được, đừng nói gì đến Nam Ẩn.
(Nguồn : Thiền là gì ? Giác Nguyên)

Hôm nay, nhân ngày tuyết lạnh, người viết pha trà uống cho ấm lòng và chia sẻ với bạn về thú uống trà.  Hy vọng bạn cũng có thú uống trà như người viết và đã đọc nhiều tài liệu về trà nên chắc chắn Bạn sẽ cảm thông dễ dàng với tâm tình của người viết hôm nay.
Có thể Bạn cũng nghe  nhiều người còn nói rằng uống trà xanh có thể phòng chống bịnh ung thư nhờ các hoá chất gọi là Polyphenol, tannins, catechins trong trà, tuy rằng y học chưa khẳng định tác dụng rõ rệt của trà xanh đối với bịnh ung thư.  Như vậy uống trà cũng tốt lắm nhỉ?
 Riêng đối với người viết, ngồi trong căn phòng ấm cúng uống một tách trà nóng, ngắm nhìn tuyết rơi bên song cửa có cái thi vị của nó.  Trong cái không gian yên lặng này, tôi thấy tâm hồn mình cũng được an tĩnh.  Khi tâm hồn được an tĩnh thì đấy là hạnh phúc vì đối với tôi hạnh phúc là những phút giây hiện tại bình an, nếu ta cảm nhận đấy là hạnh phúc.  Bạn đồng ý chứ?

 “Đừng tìm mãi nơi đâu là hạnh phúc ,
Có thể gần, cũng có thể thật xa
Xa hay gần là ở tại Tâm ta
Ta cảm nhận thế nào là thế đó

 (Hạnh Phúc ở Nơi Đâu của SL)

 Xin chúc sức khoẻ và mọi sự an lành đến với các bạn .

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

(Tài liệu sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi, ORTB 15-405 1-8-2010)

Bài số 14 Một Cõi Thiền Nhàn




Chào quý bạn,

Đây là bài thứ mười bốn của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo.

Trời Portland vẫn lạnh và  vẫn có nhiều người vẫn phải ngồi bên song cửa nhìn ra đường với niềm thương nỗi nhớ xa gần.
Đối với những người không còn trẻ nữa thì mùa Đông là mùa cay nghiệt nhất trong bốn mùa vì  như nhà thơ Hàn Thiên Lương đã tâm sự :

 Muốn thăm nhau…vì đường đông đá
 Đành gọi phone, không nói hết lời
Đêm Thánh mong người về hội ngộ,
 Nhưng giá băng, mãi biệt bên trời!

(Nguồn: Xin Mùa Đông hãy qua mau – Thơ HTL)

Người viết thì  lại nhớ đến mẹ cha:

Cha và mẹ bây giờ đà yên ngũ
Gửi xương tàn nơi đất tổ quê hương
Con bây giờ còn đang ở dặm trường
Nhớ cha mẹ viết vần thơ nơi xứ lạ

(Nhớ những ngày xưa cũ – SL*)


 Tôi lại  nhớ đến “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay đường Trần Quốc Toản dài hun hút rợp bóng cây xanh.  Sau giờ tan học, tôi đã phóng xe Velo Solex, áo trắng sinh viên bay bay trong gió trên đường về, theo sau là những “cây si” của một  “Ngày Xưa Hoàng Thị”:

”Em tan trường về
Anh theo Ngọ về
Chân anh nặng nề
Lòng anh nức nở
Mai vào lớp học
Anh còn ngẩn ngơ ngẩn ngơ”

Và cũng từ đó, bản nhạc Ngày Xưa Hoàng Thị    “bản nhạc ruột”  mà tôi rất yêu thích  nhất và tôi vẫn còn xúc động mỗi khi nghe đến.

Chắc hẵn các bạn đã thắm thía nỗi cô đơn của người sống tha hương xứ lạ, qua song cửa nhìn tuyết trắng rơi rơi hay nằm lặng nghe tiềng gió lạnh thổi rít ngoài sân trong khi nghe tiếng hát của nữ ca sĩ Bạch Yến thiết tha cất giọng cao lên để hát lên chữ  “tái” trong câu hát  “Thời gian như ngừng trong tê tái”.  Theo cảm nghĩ riêng của người viết, thì chưa có một ca sĩ nào diễn đạt tài tình và tuyệt vời như Bạch Yến qua ca khúc Đêm Đông của Nguyễn văn Đông như thế!   Hình như mỗi ca sĩ có một “bài hát tủ” riêng để cho người nghe phải nhớ mãi đến người ca sĩ đó. Bạn đồng ý chứ?

Xin mời các bạn hãy để lòng mình lắng xuống mà thưởng thức dòng nhạc Đêm Đông dưới đây:

Đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu
Đêm đông, bên song ngẩn ngơ kìa ai mong chồng
Đêm đông, thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư
Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng
Gió nghiêng, chiều say
Gió lay ngàn cây,
Gió nâng thuyền mây
Gió reo sầu miên
Gió đau niềm riêng
Gió than triền miên
Đêm đông, ôi ta nhớ nhung
Đường về xa xa
Đêm đông, ta mơ giấc mơ, gia đình, yêu đương
Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương
Có ai thấu tình cô lữ, đêm đông không nhà



Thời gian trôi qua nhanh quá!  Thoáng chốc mà đã mấy chục năm qua rồi!

Con người chính vì mang nặng những u hoài như thế mà khó có thể giải thoát được những phiền não trói buộc quanh ta, giống như một anh chàng đến hỏi vị minh sư dưới đây:

Giải thoát

“Làm thê’ nào cho con được giải thoát?”
Minh Sư đáp:
                    “Hãy tìm cho ra ai đã trói buộc con”.
Sau một tuần lễ, đệ tử đó trở lại và nói:
                    “Dạ không ai trói buộc con hết”
                    “Vậy tại sao con mong được giải thoát?”
Ngay lúc đó đệ tử được giác ngộ và lập tức anh cảm thấy tự do.

(trích trong   Mỗi Tuần Một Phút Minh Triết với Anthony de Mello, S.J.)


Sống ở đời, chúng ta cũng  thường tìm sự giúp đỡ nơi người khác để mưu cầu hạnh phúc cho mình.  Nhưng hạnh phúc nhiều khi không ở chỗ ta sở hữu nhiều đồ vật, nhà cửa mà đôi khi ở chỗ ta dám buông bỏ hết những gì quấn quíu xung quanh ta. Việc này lại là do ta quyết định đấy, bạn ạ! Xin mời bạn đọc bài viết dưới đây để xem có đúng hay chăng nhé?


HẠNH PHÚC

“Con rất cần đến sự giúp đỡ của thầy - nếu không, con sẽ quẫn trí luôn.
 Chúng con ở trong một căn phòng độc nhất, gồm có vợ chồng, con cái, và dâu rể! Do đó chúng con luôn bị căng thẳng thần kinh, la hét cãi cọ nhau om sòm.
Căn nhà thật là chốn địa ngục."

Minh Sư đáp một cách trịnh trọng: "Con có hứa là làm bất cứ những gì thầy dạy bảo không?”

“Con xin thề là sẽ làm bất cứ điều gì.”

“Được rồi. Con có bao nhiêu gia súc?”

“Một con bò cái, một con dê và sáu con gà.”

“Con hãy đem hết các con vật đó vào trong căn phòng của con. Rồi con hãy trở lại sau một tuần lễ."

Đệ tử kinh hoàng. Nhưng đã trót hứa vâng lời. Do đó, anh ta đã mang các gia súc vào nhà. Một tuần lễ sau anh ta trở lại, gương mặt rầu rĩ thảm não và nói: "Con bị thần kinh căng thẳng đến tột độ. Nào là nhơ uế! Hôi hám! Ồn ào! Tất cả chúng con sắp sửa hóa điên mất!"

Minh Sư truyền dạy: "Con hãy trở về và đem hết súc vật ra ngoài."

Anh ta chạy một mạch về nhà.
Và hôm sau, anh ta trở lại, ánh mắt rực sáng niềm vui: "Đời êm đẹp làm sao! Các gia súc đã đi khỏi. Căn phòng là một thiên đường: Yên tĩnh làm sao! Sạch sẽ làm sao! Và khoảng khoát làm sao!"

(Nguồn: Mỗi tuần một phút minh triết)

Người viết chắc chắn rằng đọc đến đây sẽ có nhiều bạn tủm tỉm cưòi như người viết vâỵ vì đôi khi bạn muốn sống yên tĩnh một mình không có tiếng ồn ào xung quanh bạn.  Đúng không, bạn thân mến?

Bây giờ một năm cũ sắp qua đi, một năm mới sắp đến.  Mời bạn tìm một chút vui vui, một chút thú vị khi đọc thơ của các nhà thơ xưa và nay nhé.

  Ngày xưa, Tú Xương đã thốt lên rằng:

 Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được cái nào hay cái  nấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà

Trần Tế Xương

Ngày nay, một thi hữu của người viết, thi sĩ Lê Ngọc Hồ cũng thốt lên:

Một trà
Một bạn
Một hoa
Cùng ba thân thiết
Thăng hoa cuộc đời
Có khi khóc
Có khi cười
Có ba tận hưởng
Lộc trời an vui

Lê ngọc Hồ

Mỗi thi sĩ có ba thứ đã “quấy ta” như thế, nhưng hình như thi sĩ  Lê Ngọc Hồ  xem cái quấy ta này là “lộc trời an vui” ban cho ông,  cho nên ông đã  “có ba tận hưởng” với tâm hồn thiền vị và sảng khoái của một nhà thơ Thiền, mặc dù ông là người theo đạo Thiên Chúa.  Như thế Thiền không phải giới hạn cho Phật Giáo mà cho cả những tôn giáo và các lảnh vực khác nữa.

Năm cũ đã qua, thôi thì ta hãy quên đi những phiền muộn của năm cũ để mà vui với cái vui của năm mới sắp đến.  Mùa Đông lạnh lẻo rồi cũng qua đi để đón chào Xuân đến.  Dưới đám tuyết trắng kia vẫn có những mầm non đang im ngủ, nhưng rối khi tuyết tan đi mầm non kia sẽ xuất hiện và sẽ nở hoa kết trái xinh đẹp như cũ.

 Dưới tuyết trắng cỏ non kia im ngủ
Tuyết tan rồi, cỏ sẽ hiện liền ra
 Như vô minh ở nơi chốn ta bà
 Trí tuệ đến tâm Phật kia xuất hiện

(Bên song nhìn tuyết đổ - SL*)

 Xin chúc sức khoẻ và mọi sự an lành đến với các bạn .


Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

Happy New Year

(Tài liệu sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi, ORTB 13-404 1-1-2010)

Bài số 13 Một Cõi Thiền Nhàn




Chào quý bạn,

Đây là bài thứ mười ba của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo.

Portland tháng 12 năm nay có những cơn mưa lạnh rỉ rả suốt tuần lễ.  Nhìn mưa rơi bên song cửa mà buồn đến nẫu ruột nẫu gan.  Các bạn của người viết ở Cali đến chơi cứ bảo tại sao tôi lại thích ở một nơi buồn và mưa nhiều thế!?
 Thế mà tôi đã sống ở nơi “phố nhỏ đìu hiu” này đã hơn 20 năm qua vì Portland trong trái tim nhỏ bé của người viết, lại là một Dalat diễm tình và thơ mộng với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông với sương lam giăng đầy khắp nẽo, mà hồi nhỏ tôi ao ước đưọc sống ở đấy. Cái tên Sương Lam mà tôi chọn làm bút hiệu từ lúc tôi mới bắt đầu biết làm thơ tình năm 15 tuổi đã gắn liền với đời sống thơ văn nghệ thuật của tôi 50 năm qua và cuối cùng tôi đã chọn Portland là nơi vui thú điền viên dù thân nhân và bạn bè đã nhiều lần “dụ khị” tôi đi định cư ở nơi khác.  Ấy có phải là duyên phúc khi tôi đạt được mộng ước của mình là được sống ở một Dalat thứ hai theo cách nghĩ của tôi dù nơi đây buồn lắm!

Thú thật, mỗi lần tôi cất bước giang hồ đến những nơi xa lạ khác và ngay cả khi về thăm lại quê hương Việt Nam, tôi cứ mong chấm dứt sớm chuyến du ngoạn đường xa xứ lạ để tôi quay về lại với ngôi nhà nhỏ bé của mình ở Portland, để ngắm nhìn lại mảnh vườn sau có cây hồng, cây lê, có hoa tulip, hoa đào mà tôi đã ra công vun trồng mấy chục năm qua. Nhưng có lẻ nguyên nhân tình cảm sâu xa nhất là được vui đùa với cô cháu nội yêu quý Mya Ngọc Vy của tôi sau bao ngày xa vắng.
Có lẻ tình cảm thiêng liêng này mới là nguyên nhân chính làm cho tôi yêu Portland thêm hơn nữa, dù nơi đây có mưa lạnh buồn hiu.

Dông dài như thế để có thể nói rằng mọi chuyện ở đời  hình như là do duyên nghiệp cả.  Có  những sự việc nhiều khi không đem đến cho chúng ta kết quả như chúng ta hằng mong đợi hoặc đôi khi còn làm cho mình đau khổ nữa.  Trong phạm vi gia đình nhỏ bé của chúng ta, đời sống vợ chồng đôi khi cũng đem đến cho chúng ta nhiều điều phiền muộn vì nếu vợ chồng không thông cảm, hổ trợ tinh thần cho nhau thì một “nữa cái xương sườn kia” kia có thể là “nữa hồn thương đau” của ta đó.  Một người thích thơ văn, nghệ thuật, thích hoạt động xã hội nếu không đưọc sự thông cảm, ủng hộ, khích lệ của người phối ngẫu thì ít nhiều gì thiện chí và khả năng của người ấy cũng bị hao mòn, giảm thiểu và ta cảm thấy đau buồn lắm. Một người làm được việc tốt, giúp đỡ, chia sẻ những điều ích lợi chung cho tha nhân thì  thân nhân của họ cũng được chung hưởng phúc báo của những việc tốt, thiện lành đó, cho nên chúng ta cũng cần nên khích lệ, ủng hộ tình thần của họ.  Có như thế thì cuộc đời sẽ tươi đẹp hơn nhỉ?
 
 Nếu hiểu rằng, trong cuộc đời của ta có những thuận duyên làm cho tài năng và thiện chí của ta phát triển tốt đẹp thì cũng có những nghịch duyên làm cho ta phải kiên trì và phấn đấu khắc phục những trở ngại đó với cái tâm an bình và nhẫn nhục.  Hy vọng sẽ có một ngày, chúng ta sẽ đạt được kết quả mà ta mong ước.  Việc gì cũng cần phải có thời gian để cho mọi việc được tiến hành tốt đẹp, phải không bạn?

 Xin mời bạn cùng đọc với người viết mẫu chuyện ngắn dưới đây

Càng gấp càng chậm

Có chàng thanh niên lên núi xin một dị nhân truyền dạy kiếm pháp, anh ta thưa:

-          Bạch sư phụ, nếu như con nỗ lực học tập, chừng bao lâu mới học xong?
-          Có lẻ mười năm.
-          Cha con tuổi càng cao, con phải lo trở về hầu hạ.  Nếu  như con càng nhiệt thành nỗ lưc học tập hơn nữa cần chừng bao lâu?
-          À! Như thế thì cần ba mươi năm.
-          Sư phụ trước đã nói mười năm, bây giờ lại nói ba mươi năm.  Con không ngại bất cứ lao khổ nào.  Xin sư phụ dạy trong thời gian ngắn nhất để học thành đạt.
Vị kiếm sư đáp:
-          Như thế thì phải theo học nơi ta bảy mươi năm mới thành tựu.

Lời bình:  Người mong thành công sớm để được lợi gần hơn phân nữa, là kẻ “dục tốc bất đạt”.
                 “ Tâm bình thường là Đạo”, chính là lẽ này, càng muốn mau thành công, tỏ ra thiếu
                chí nhẫn nại thì không thể học thiền được.

(Nguồn: Thiền là gì? Biên soạn – Giác Nguyên)

Người viết may mắn được thừa hưởng cái tính ham đọc sách của cha tôi nên rất thích văn chương, thơ phú.  Khi cha mẹ  tôi còn sống, tôi thường hay viết thư về thăm hỏi sức khoẻ ba má tôi.  Trong thư, tôi thường hay tả tình tả cảnh sinh hoạt của gia đình nhỏ bé của tôi nơi xứ người như một bài văn, bài thơ.  Mỗi lần về thăm ông cụ, tôi thấy dưới gối nằm của ba tôi  là những bức thư của tôi được xếp cẩn thận trong một bìa giấy.  Ba tôi nói với tôi là cụ đọc đi đọc lại những bức thư này mãi vì những bức thư này đem niềm vui tình cảm đến với cụ trong tuổi gíà.  Cha tôi cũng biết làm thơ. Ba tôi bảo tôi đọc, phê bình, thảo luận với cụ về những bài thơ cụ viết vì có lẻ chỉ có tôi là người chịu nói chuyện thi văn với cụ vì tôi cũng thích thơ văn.  Tôi thấy cha tôi vui, dĩ nhiên là tôi cũng vui theo vì ít ra tôi cũng làm được một việc gì đó làm cho ba tôi vui, dù rất tầm thường là tôi  chỉ ngồi nói chuyện tào lao với cụ về  thơ văn cho cụ vui được ít phút giây.  Rồi cũng từ đấy, tôi càng ngày càng thích viết văn làm thơ vì lúc nào cũng có người luôn luôn ủng hộ và khích lệ tôi.  Người đó chính là ba tôi.  Con xin cảm tạ ân đức của ba đã cho con một niềm vui tinh thần thanh nhã.
 Kể từ ngày ba tôi qua đời, tôi đã mất đi một người bạn tri kỷ ngoài tình cha con.  Bây giờ, tôi vẫn tiếp tục chia sẻ tâm tình của tôi với những người bạn mà tôi quen biết vì chính nhờ có họ mà đời sống tình cảm và tinh thần của tôi được phát triển tốt đẹp hơn vì họ luôn khích lệ, hỗ trợ tinh thần tôi.  Đó là những thuận duyên tốt đẹp bên cạnh những nghịch duyên mà tôi gặp phải.

Bây giờ là Mùa Giáng Sinh, mùa của yêu thương và chia sẻ niềm vui.  Tôi tuy là Phật  tử nhưng năm nào nhà tôi cũng trưng bày cây thông với đèn hoa rực rỡ trước sân và có một bửa tiệc xum họp gia đình trong ngày Giáng Sinh vì đây cũng  là dịp để tôi chia sẻ niềm vui và xum họp với người thân trong gia đình tôi.
 Tôi rất kính trọng niềm tin tâm linh của các thân hữu của tôi vì tôi quan niệm rằng Chúa, Phật hay giáo chủ của các tôn giáo đều  khuyện dạy đệ tử  nên làm  lành lánh dữ, yêu thương nhau trong tinh thần từ bi, bác ái đã được tôi cảm nghĩ như sau:

Tháng Chạp đến với đèn hoa rực rỡ
Người người mừng chào đón Lễ Giáng Sinh
Trời mùa Đông nhưng vẫn thấy ấm tình
Tình Nhân Loại, Thương Yêu và Bác Ái

Thiện Tâm ấy nào phân chia tông phái
Chúa trên cao hay Phật ngự tòa sen
Thương kẻ trần không phân biệt sang hèn
Khuyên người phải biết thương yêu, giúp đở
.
(Bài Tình Thơ Tháng Chạp – SL*)

Tôi vẫn thấy xúc động mỗi khi đọc bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” của  nhà thơ Kiên Giang:

…..”
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường”

‘Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, cành hoa trắng
Giữ cả trường xưa, nóc giáo đường”

Tôi cảm thông tâm tình của nhà thơ người Rạch Giá này:

…“Lâu quá không về thăm xóm đạo
Không còn đứng nép ở lầu chuông
Những khi chuông đổ anh liên tưởng
Người cũ cầu kinh giữa thánh đường

Kiên Giang

Tôi cũng xót xa, ngậm ngùi cùng với Vũ Anh Khanh qua bài Tha La Xóm Đao thuộc Xã An Hòa, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh.

Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.

Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng” …

Vũ Anh Khanh


Những ngày xưa còn ở quê nhà, tôi cũng thường lang thang với bạn bè ở nhà thờ Đức Bà ở thành phố Saigon trong ngày Lễ Giáng sinh để hoà chung niềm vui với những người có đạo:

“Lạy Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ở trên cao
Trong lòng còn giữ màu hoa trắng
Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!”

Kiên Giang

Nhân mùa Giáng Sinh, người viết xin chúc tất cả quý bạn có những phút vui và hạnh phúc với người thân trong buổi tiệc xum họp gia đình của quý bạn.
 Ngoài trời dầu có gió lạnh tuyết rơi nhưng chúng ta lúc nào cũng thấy ấm lòng với tình thương yêu của gia đình và thân hữu, bạn đồng ý chứ?

Xin mượn bốn câu thơ dưới đây thay cho lời chúc của người viết gửi đến quý bạn trong dịp Lễ Giáng Sinh nhé:

Quen hay lạ vẫn nụ cười cởi mở
Đưa bàn tay nắm lấy một bàn tay
Trao cho nhau lời chúc tốt đẹp này:
“Chúc tất cả được bình an dưới thế”

 (Bài tình thơ Tháng Chạp -  SL*)

 Xin chúc sức khoẻ và mọi sự an lành đến với các bạn .

 Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
  
Sương Lam
 
(Tài liệu sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi, ORTB 13-403-122509)





bài số 12 Một Cõi Thiền Nhàn




Chào quý bạn,

Đây là bài thứ mười hai của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo.

Mùa Đông trời lạnh, ngồi trong nhà nhìn cảnh vật bên ngoài một màu xám lạnh.  Tiếng mưa rơi đêm nay ti’tách trên mái nhà làm cho Bạn và tôi cảm thấy nhớ nhung, buồn da diết.  Bạn và tôi sẽ nhớ quê hương, nhớ cha nhớ mẹ, nhớ bạn bè thân hữu, nhớ người thân khuất bóng.

Rồi chinh chiến, nào ai nào biết trước
Những chia ly xa cách, biệt trùng xa
Mưa xứ người càng gợi nhớ quê nhà
Nhớ cha mẹ, nhớ bạn bè, kỷ niệm

Bạn sẽ nhớ đến mẹ cha đã khuất bóng như người viết:

Cha và mẹ bây giờ đà an nghỉ
Gửi xương tàn nơi đất tổ quê hương,
Con bây giờ vẫn còn ở dặm ngàn,
Nhớ cha mẹ, viết vần thơ nơi xứ lạ  

( Đêm nằm nghe mưa rơi – SL*)

 Trời Đông lạnh, bên cạnh việc thương nhớ cha mẹ, kỷ niệm xa xưa,  theo thiển ý của người viết, không có gì  thích thú cho bằng được cuộn mình trong chiếc mền ấm, trong một không gian  yên tỉnh, đọc một quyển sách hay hay nghe một bản nhạc êm dịu.  Lúc đó bạn sẽ không dữ tợn như là ác quỷ, mà trái lại, bạn sẽ hiền từ, nhân ái  như một vị thiên thần qua hai mẫu chuyện dưới đây. Xin mời Bạn thưởng lãm:

  

Ác quỷ


He, who fights with monsters should be careful lest he become a monster. And if thou gaze long into an abyss, the abyss will also gaze into thee.”
“Ngươi, kẻ chiến đấu với ác quỷ, hãy cẩn thận kẻo ngươi trở thành ác quỷ. Và nếu ngươi trừng mắt nhìn sâu vào vực thẳm, vực thẳm cũng sẽ trừng mắt nhìn ngươi.”
Friedrich Nietzsche – Beyond Good and Evil


Giai thoại thiền có kể chuyện một chàng dũng sĩ rời chùa xuống núi. Ngoài thanh gươm báu, sư phụ trao cho chàng một chiếc kính chiếu yêu. Kính này khi rọi vào người khác, nếu người là ác quỷ, thì sẽ hiện nguyên hình trong kính. Trên đường hành hiệp, đi đến đâu kính cũng soi rọi cho thấy toàn loài quỷ dữ. Và lưỡi gươm trong tay chàng đã lấy máu của biết bao kẻ hung ác. Qua bao nhiêu năm tháng ruổi rong, một chiều dừng chân về núi cũ chùa xưa, chàng dũng sĩ lấy kính ra định dâng lại cho thầy. Chợt thoáng thấy kính phản chiếu bóng mình, dũng sĩ hét lên kinh hoàng; thì ra bóng chàng trong gương hiện nguyên hình một con ác quỷ.

(Nguồn: internet)

Thế À


Thiền sư Hakuin được người chung quanh ca tụng là người sống trong sạch. Một gia đình người Nhật có một tiệm bán thực phẩm gần nơi Hakuin ở. Họ có một cô con gái xinh đẹp. Bất ngờ, một hôm cha mẹ cô gái khám phá ra cô có thai.
Việc này làm cho cha mẹ cô gái nổi giận. Cô gái không chịu thú nhận người đàn ông cô chung đụng là ai, nhưng sau bao nhiêu là phiền phức , cuối cùng lại là tên Hakuin.

Phẫn nộ vô cùng , cha mẹ cô gái đến ngay vị thầy này. Hakuin chỉ thốt lên vỏn vẹn hai tiếng:
- “ Thế à” rồi thôi

Sau khi đứa bé sinh ra, nó được mang tới trao cho Hakuin. Lúc đó Hakuin đã mất hết danh dự, nhưng việc này không làm cho Hakuin buồn. Hakuin săn sóc đứa bé rất tử tế. Hakuin xin sữa của những bà mẹ hàng xóm và những đồ dùng cần thiết cho đứa bé.

Một năm sau cô gái không còn chịu đựng được nữa. Nàng nói sự thật với cha mẹ nàng rằng người cha thật sự của đưá bé không phảI là Hakuin mà là một thanh niên bán cá ngoài chợ.
Lập tức cha mẹ cô gái đến ngay Hakuin xin Hakuin tha lỗi và xin đem đứa bé về.

Hakuin ưng thuận. Khi trao lại đứa bé, Hakuin cũng chỉ thốt hai tiếng : “Thế à!”

( Nguồn: Trích trong Góp Nhặt Cát Đá – Thiền Sư Muju- Đỗ Đình Đồng dịch)

Hai câu chuyện, hai hình ảnh ác quỷ và thiên thần nhắc nhở chúng ta lúc nào cũng nên hành động cẩn thận trong đời sống hằng ngày và lúc nào cũng nên rải tâm từ bi, nhân ái đến tất cả mọi người với cái tâm an nhiên tự tại.

 Người viết thích sưu tầm những bài thơ, bài nhạc nào đem đến cho người viết những phút giây tĩnh lặng của tinh thần.
 Một trong  những  nhà thơ được người viết kính mến là nhà thơ Phạm Thiên Thư với những bài thơ được phổ nhạc được nhiều người yêu thích như Ngày Xưa Hoàng Thi, Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng, Em Đi Lễ Chùa, Gọi Em Là Đoá Hoa Sầu.

 Thơ Phạm Thiên Thư nữa đời nữa đạo, mơ mơ màng màng khiến ta có một cảm giác lâng lâng thoát tục.  Bài thơ Đưa Em Tìm  Động Hoa Vàng của ông  gồm 100 đoạn, mỗi đoạn 4 câu đã được phổ nhạc làm say đắm lòng người, trong đó có người viết.
 Xin mời các bạn thưởng thức bài thơ đã được phổ nhạc dưới đây



Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng

Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng nhớ nhau
Thôi thì em đừng ngại mưa mau
Ðưa nhau ra tới bên cầu nước xuôi
Sông này đây chảy một giòng thôi
Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông
Nhớ xưa em chửa theo chồng
Mùa xuân may áo, áo hồng đào rơi
Mùa thu em mặc áo da trời
Sang đông lại khoác lên người áo hoa.
 
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Thôi thì em chẳng còn yêu tôi
Leo lên cành bưởi khóc người rưng rưng
Thôi thì thôi mộ người tà dương
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi
Nhớ xưa em rũ tóc thề
Nhìn trăng sao nỡ để lời thề bay
Ðợi nhau tàn cuộc hoa này
Ðành như cánh bướm đồi tây hững hờ
 
Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Thôi thì thôi để mặc mây trôi
Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Thôi thì thôi chỉ là phù vân
Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi
Chim ơi chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rơi rụng giữa giang hà
Mai ta chết dưới cội đào
Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu.

 Phạm Thiên Thư

 (Nguồn: Tu viện Quảng Đức)

Người viết hy vọng trong năm ba phút dừng chân nơi khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn này, quý bạn có được những phút giây an lạc tinh thần qua những tài liệu do người viết sưu tầm đem về đây chia sẻ với bạn bè thân hữu.
Xin được một sự cảm thông của những người bạn  “đồng thinh tương ứng, đồng khí tương cầu”  với người viết để chúng ta cùng được sống trong yêu thương và thân ái giữa chốn phù vân này.

 Xin chúc sức khoẻ và mọi sự an lành đến với các bạn .


Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

(tài liệu sưu tầm trên internet, qua email bạn gửi, ORTB 12-402-121809)